Chứng sợ khoảng rộng là gì? Nguyên nhân và cách khắc phục
Chứng sợ khoảng rộng được đặc trưng bằng trạng thái sợ hãi, hoảng loạn khi người bệnh phải ở trong một không gian rộng, ở một mình. Đây là một bệnh lý cực kỳ nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần và chất lượng đời sống của mỗi người nên cần được kiểm soát càng sớm càng tốt.
Chứng sợ khoảng rộng là gì?
Chứng sợ khoảng rộng (Agoraphobia) là một dạng của rối loạn lo âu được đặc trưng bởi những cảm xúc lo lắng, hoảng sợ quá mức với các vấn đề liên quan đến khoảng rộng. Mô tả một cách dễ hiểu hơn, người mắc bệnh này thường trong trạng thái hoảng loạn, chạy trốn khi đang ở trong các tình huống, địa điểm khó tìm ra lối thoát.
Người bệnh cảm thấy không được an toàn, bất an khi đến những nơi đông người, cần phải xếp hàng, đi thang máy… Điều này khiến họ dường như chỉ trốn trong nhà, trú ngụ tại các vùng mà họ cho rằng an toàn, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Mặc dù có có thể nhận thức nỗi sợ hãi của bản thân là vô lý nhưng không thể nào kiểm soát được bản thân.
Các triệu chứng đặc trưng của chứng sợ khoảng rộng chính là sự e dè, sợ hãi, hoảng loạn, người run rẩy, đổ mồ hôi, cảm giác khó thở, hoặc luôn cố gắng tránh né phải ra ngoài. Các triệu chứng này có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, chỉ cần ra khỏi vùng an toàn của họ, thường là trong phòng ngủ, trong nhà.
Cụ thể một số địa điểm có thể liên quan đến nỗi sợ hãi của người bệnh như
- Ở nhà một mình, tuy nhiên không phải ai cũng hoàn toàn hoảng sợ nếu ở nhà vì họ có thể quen thuộc và cho rằng đây là nơi an toàn
- Những chỗ cần xếp hàng hay các đám đông ngoài đường
- Những nơi có không gian kín thang máy, trên xe ôtô, rạp chiếu phim, hay cả trong các căn phòng nhỏ
- Những nơi có không gian mở, rộng lớn như bãi đậu xe, siêu thị, hội trường rộng..
Các chẩn đoán xác nhận là chứng sợ khoảng rộng khi người bệnh có những nỗi hoảng sợ vô cớ, sự sợ hãi không phù hợp với tình huống và các triệu chứng đã kéo dài trên 6 tháng.
Các nghiên cứu cũng cho thấy có đến 1,7 triệu thanh thiếu niên và cả người trưởng thành gặp phải chứng bệnh này, trong đó tỷ lệ mắc bệnh ở phụ nữ cao gấp 2 lần nam giới. Các triệu chứng hoảng loạn cũng có xu hướng thay đổi theo độ tuổi, chẳng hạn trẻ con thì sợ lạc, người già luôn ám ảnh với việc bị ngã.
Họ thường cố gắng đi thật nhanh, làm các công việc thật nhanh để quay trở về nhà nhưng đôi khi sự hoảng loạn quá mức làm họ không thực hiện được điều này. Khi các triệu chứng xuất hiện thì khả năng ngôn ngữ, giao tiếp của người bệnh cũng trở nên rối loạn, đứt đoạn, nói nhanh, thở gấp không rõ ràng. Thậm chí người bệnh có thể ngất xỉu do hoảng sợ tột độ.
Nguyên nhân dẫn tới chứng sợ khoảng rộng
Bất cứ ai cũng có một nỗi sợ mơ hồ, tuy nhiên ở người mắc hội chứng này các triệu chứng được thể hiện một cách mạnh mẽ, không thể kiểm soát. Tuy nhiên hiện vẫn chưa thể xác định chính xác đâu là nguyên nhân gây ra trạng thái này. Điều này cũng khiến việc điều trị bệnh hoàn toàn có phần khó khăn hơn.
Tạm thời có thể xác định một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bao gồm
- Yếu tố di truyền được xác định là có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh. Những người có cha mẹ mắc chứng chứng sợ khoảng rộng hoặc rối loạn lo âu thường có khả năng mắc bệnh cao hơn bình thường
- Các tiền sử bệnh lý tâm thần trước đó. Cụ thể nếu trước đó người bệnh từng gặp các vấn đề như trầm cảm, rối loạn lo âu, hội chứng sợ đám đông hay hội chứng sợ không gian kín chưa được điều trị dứt điểm
- Có liên quan đến lạm dụng thể chất, lạm dụng các chất kích thích kéo dài
- Người gặp những sang chấn, tổn thương tâm lý như bị hành hung tại bãi đậu xe, bị bắt cóc tại thang máy có thể để lại những ám ảnh và dẫn tới rối loạn tâm lý bất thường
Bệnh có thể xuất hiện từ thủa nhỏ nếu có liên quan đến các yếu tố di truyền, tuy nhiên thường gặp ở những người từ 18 – 35 tuổi. Các dấu hiệu bệnh xuất hiện đột ngột khiến chính bản thân họ không kịp thích ứng và trở nên hoảng loạn cực độ.
Những ảnh hưởng do chứng sợ khoảng rộng gây ra
Mức độ ảnh hưởng từ chứng sợ khoảng rộng lên cuộc sống người bệnh là vô cùng trầm trọng. Những nỗi sợ hãi ám ảnh của bệnh nhân đều là các vấn đề cần phải gặp hằng ngày mà không thể nào tránh khỏi. Do đó khi mắc bệnh này cuộc sống người bệnh hầu như chỉ nằm trong một khoảng nhà, không tiếp xúc với xung quanh.
Trong mắt những người xung quanh, những người mắc chứng chứng sợ khoảng rộng vô cùng kỳ dị. Hơn hết việc họ chỉ tránh né ở trong nhà cũng rất khó để kết bạn. Có những người thậm chí trốn tránh trong nhà suốt vài năm trời. Họ thậm chí còn không xem các hình ảnh liên quan đến nỗi sợ hãi. Tình trạng này khiến bệnh nhân ngày càng xa rời cuộc sống, cô độc, thiếu các kỹ năng sống, không thể làm được các công việc bình thường.
Họ hầu như luôn cần phụ thuộc vào người thân trong việc mua sắm, khi đi ra ngoài hay các vấn đề liên quan khác. Họ hầu như trở nên cô lập bản thân, không có bạn bè và vô cùng cô đơn. Sẽ vô cùng khó khăn nếu muốn người bệnh đi ra ngoài, trừ khi cưỡng ép, chính do đó việc điều trị thường cũng được bắt đầu rất chậm chạp.
Bên cạnh đó, chứng sợ khoảng rộng cũng thường kèm theo một số rối loạn tâm thần khác như rối loạn hoảng sợ hay một số vấn đề rối loạn lo âu khác hay trầm cảm. Điều này khiến việc điều trị gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có thể dẫn đến việc người bệnh có những hành vi tự tử khi ở một mình. Mặt khác trong cơn hoảng loạn tại những nơi mà họ cho là không an toàn cũng có thể xảy ra các tai nạn do bản thân họ không kiểm soát được các hành vi của bản thân.
Tuy nhiên cần phải hiểu rằng bản thân họ có thể nhận thức được nỗi sợ của bản thân là vô lý và bản thân họ cũng mong muốn được điều trị bệnh khi đã nhận thức được. Vì vậy gia đình cần kiên trì hỗ trợ, tìm được các phương án phù hợp để đưa bệnh nhân ra ngoài để thăm khám với bác sĩ càng sớm càng tốt.
Hướng điều trị chứng sợ khoảng rộng
May mắn là theo các bác sĩ, bệnh nhân agoraphobia thường có khả năng đáp ứng khá tốt với các loại thuốc và cả việc trị liệu tâm lý. Tuy nhiên đây thực sự là một chặng đường dài với nhiều khó khăn, đặc biệt ở giai đoạn kết nối bệnh nhân với bác sĩ để bệnh nhân thực sự tuân thủ theo chỉ định điều trị. Gia đình cần đóng vai trò là người kết nối, hỗ trợ giữa cả hai, đồng thời chính bản thân người bệnh cần thực sự có quyết tâm trong điều trị.
Điều trị y khoa
Tùy từng tình trạng bệnh nhân và các bệnh lý kèm theo mà các loại thuốc được chỉ định phù hợp. Mục đích chính của việc dùng thuốc nhằm kiểm soát các cảm xúc hoảng sợ lo lắng quá mức, ổn định tinh thần để người bệnh dần dần có thể tham gia vào một số hoạt động sinh hoạt bình thường.
Một số loại thuốc chính thường được dùng bao gồm
- Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin: có thể dùng Paroxetine (Paxil) hoặc Fluoxetine (Prozac)
- Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin và norepinephrine: các thuốc được chỉ định phổ biến như Venlafaxine hoặc Cymbalta
- Thuốc chống trầm cảm ba vòng: nếu có các triệu chứng trầm cảm, u buồn, có các hành vi tự tử. Các thuốc điển hình như Amitriptyline (Elavil) hoặc nortriptyline (Pamelor)
- Thuốc chống lo âu: thường được chỉ định alprazolam (Xanax) hay dùng clonazepam (Klonopin) để giảm cảm giác lo âu.
- Thuốc an thần: giúp giảm cảm giác hoảng sợ, hỗ trợ giấc ngủ trong các giai đoạn cấp tính. Tuy nhiên không được chỉ định dùng lâu dài do có thể gây nghiện.
Việc dùng thuốc cần tuyệt đối tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Người bệnh tuyệt đối không nên tự ý mua thuốc hay tự tăng/ giảm các liều dùng so với chỉ định ban đầu của bác sĩ. Khi các triệu chứng thuyên giảm, người bệnh vẫn có thể cần dùng liều duy trì trong thời gian gian để ngăn ngừa nguy cơ bệnh tái phát trở lại.
Trị liệu tâm lý
Trị liệu tâm lý là phương pháp hướng đến chính cho những bệnh nhân sợ khoảng rộng. Các bác sĩ sẽ đảm nhiệm việc lắng nghe nỗi sợ hãi của bệnh nhân và góp phần tác động vào để bệnh nhân biết rằng điều đó không có gì đáng sợ. Đồng thời trị liệu còn giúp củng cố niềm tin với bác sĩ, điều chỉnh nhận thức đúng đắn, gia tăng các kỹ năng xã hội để sau khi kết thúc điều trị người bệnh có thể nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường.
Các phương pháp được áp dụng trong trị liệu tâm lý với bệnh nhân agoraphobia bao gồm
- Liệu pháp tiếp xúc: trong giai đoạn đầu bác sĩ có thể yêu cầu bệnh nhân thư giãn và tưởng tượng đến nỗi sợ hãi và bác sĩ sẽ hướng dẫn bạn cách kiểm soát nó. Dần dần sau đó bác sĩ có thể yêu cầu người bệnh trực tiếp tiếp xúc với nỗi sợ hãi và thực hành các phương pháp trước đó ngoài đời thực. Các trải nghiệm thực tế được đưa ra với mức độ tăng dần sẽ làm giảm cảm giác sợ hãi hoảng loạn ở người bệnh.
- Liệu pháp hành vi: Bác sĩ sẽ tác động vào nhận thức, suy nghĩ của bệnh nhân để điều chỉnh những tư tưởng sai lệch hoặc chấm dứt những suy nghĩ, hành vi góp phần làm trầm trọng bệnh. Đồng thời thông qua trị liệu để hướng người bệnh đến những hành vi đúng đắn, thay thế những điều tiêu cực bằng những suy nghĩ tích cực. Việc điều tị với liệu pháp hành vi cần kéo dài từ 8-12 tuần để đem lại kết quả tốt nhất. Nếu bệnh nhân đáp ứng tốt với phương pháp này, khả năng tái phát bệnh là khá thấp hoặc ít nhất có thể kiểm soát cơn hoảng sợ diễn ra ở tần suất ít nhất.
Bên cạnh đó, các bác sĩ tâm lý cũng sẽ hướng dẫn bệnh nhân một số phương pháp kiểm soát nỗi hoảng sợ, bình tĩnh hơn, chẳng hạn như các liệu pháp. Trong một số trường hợp nặng, bác sĩ tâm lý cần phải trực tiếp đến nhà bệnh nhân để phục vụ cho việc điều trị do bệnh nhân không thể vượt khỏi nỗi sợ hãi để ra khỏi nhà. Người nhà nên tìm kiếm trao đổi rõ với bác sĩ về tình trạng của bệnh nhân để được hỗ trợ một cách tốt nhất.
Sự hỗ trợ của gia đình và quyết tâm của bệnh nhân
Để điều trị agoraphobia bắt buộc cần phải có sự giúp sức của gia đình trong việc khuyến khích người bệnh chấp nhận điều trị cũng như theo dõi, kiểm soát các hành vi bất thường của bệnh nhân khi ở nhà. Bệnh nhân cần phải thực sự quyết tâm, nâng cao tinh thần muốn điều trị bệnh, chấp nhận hợp tác tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ để loại bỏ bệnh hoàn toàn.
Một số biện pháp giúp việc điều trị tại nhà có kết quả tốt hơn bao gồm
- Luyện tập thiền hằng ngày để kiểm soát sự sợ hãi, lo lắng, căng thẳng quá mức. Các nghiên cứu đã cho thấy thiền thực sự có ích cho những bệnh nhân rối loạn lo âu trong việc kiểm soát nỗi ám ảnh sợ hãi quá mức của bản thân.
- Học các hít thở giúp bệnh nhân bình tĩnh hơn khi đứng trước các nỗi sợ hãi. Đồng thời việc hít thở đạc thành thục thì người bệnh có thể thực hành các liệu pháp tiếp xúc với thực tế thuận lợi hơn
- Tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người xung quanh, tuy nhiên không nên phụ thuộc hoàn toàn vào một người nào đó. Bạn có thể chia sẻ với những người thân về nỗi sợ hãi của mình và có thể đi cùng họ để thực hành trải nghiệm thực tế trong những lần đầu. Tuy nhiên về lâu dài, không phải ai cũng có thể giúp đỡ bạn suốt cuộc đời, bản thân bạn cần phải tự mình trải nghiệm.
- Hãy bắt đầu từ những trải nghiệm nhỏ nhất, có thể đơn giản là đi ngoài ngoài đường, đi cùng người thân sau đó mới tiến đến những nỗi sợ hãi lớn hơn. Khi thực cảm thấy bản thân đã làm chế ngự được nỗi sợ hãi, đủ bình tĩnh để làm chủ được tình huống thì hãy tiến đến với những trải nghiệm lớn hơn để bản thân không bị quá choáng ngợp.
- Tham gia các nhóm điều trị phối hợp với các bệnh nhân khác, điều này có thể được các bác sĩ tâm lý hỗ trợ sắp xếp. Cùng tham gia và chia sẻ các trải nghiệm tâm lý với những người cùng tâm trạng sẽ giúp người bệnh cảm thấy thoải mái hơn đồng thời có định hướng để tất cả cùng nhau chế ngự bệnh
- Tập thể dục thể thao mỗi ngày để cải thiện sức khỏe đồng thời tăng cường các năng lượng tích cực cho trí não. Với việc tập luyện trong nhà bạn có thể lựa chọn các bộ môn như thể dục nhịp điệu, yoga, dưỡng sinh..
- Tuyệt đối tránh xa bia rượu, thuốc lá và các chất kích thích khác
- Gia đình cần hỗ trợ cho các hoạt động của bệnh nhân, khuyến khích, động viên bệnh nhân mỗi ngày giúp người bệnh bình tâm, tích cực và lạc quan nhất trong suốt quá trình điều trị.
Việc điều trị chứng chứng sợ khoảng rộng là một con đường rất dài cần có sự quyết tâm cao độ của người bệnh. Phát hiện và điều trị sớm sẽ giúp kiểm soát các triệu chứng hiệu quả hơn, ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm khác có thể xuất hiện.
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!