Rối loạn thích nghi là gì?

Theo thống kê, tỷ lệ bệnh nhân mắc chứng rối loạn thích nghi là 2-8 % và thường có xu hướng xuất hiện nhiều hơn ở nữ giới. Bệnh có liên quan trực tiếp với các yếu tố sang chấn và gây ra các rối loạn về mặt cảm xúc khiến người bệnh có những suy nghĩ, hành vi bất thường.

Rối loạn thích nghi là gì?

Rối loạn thích nghi (RLTN)/ rối loạn thích ứng có tên khoa học là Syndrome Général d’adaptation. Đây là một dạng bệnh tâm thần được diễn tả bởi hàng loạt các cảm xúc bất thường diễn ra ngay sau khi gặp các sang chấn tâm lý. Các triệu chứng này thường xuất hiện kéo dài trong 6 tháng, tuy nhiên nếu các sang chấn không được giải quyết bệnh vẫn sẽ tiếp tục dai dẳng với nhiều dấu hiệu trầm trọng hơn.

Rối loạn thích nghi
Rối loạn thích nghi xuất hiện sau cơn sang chấn tâm lý do người bệnh không vượt qua được

Sau khi các biến cố xảy ra, bệnh nhân cảm thấy không thể đương đầu với sự việc, cảm thấy cuộc sống dần bị đảo lộn. Có những bệnh nhân chỉ xuất hiện 1 triệu chứng nhưng cũng có người xuất hiện cùng lúc nhiều triệu chứng. Bệnh có thể khởi phát từ 1 hoặc nhiều yếu tố sang chấn được dồn nén trước đó.

Nữ giới có tỷ lệ RLTN cao gấp 2 lần so với nam với còn với độ tuổi vị thành niên tỷ lệ mắc bệnh là ngang nhau. Những giai đoạn trong rối loạn thích nghi mà bệnh nhân cần phải trải qua bao gồm

Giai đoạn 1 – Phản ứng báo động

Khi gặp một sự cố, một sang chấn bất thường, bất cứ ai cũng sẽ bị sốc. Tình trạng sốc có thể kéo dài vài phút hoặc 24h đồng hồ, thậm chí là lâu hơn. Lúc này cơ thể sẽ hình thành các phản ứng chống sốc để cân bằng và bảo vệ cơ thể. Hệ thần kinh giao cảm sẽ kích thích tuyến thượng thận nhằm tiết ra  adrenaline và noradrenaline – một loại nội tiết tố do căng thẳng.

Adrenaline và noradrenaline sẽ làm tăng huyết áp dẫn tới tăng nhịp tim, rối loạn tiêu hóa và một số vấn đề bất thường khác.

Giai đoạn 2 – Giai đoạn kháng cự

Trong giai đoạn trước, cú sốc đã khiến cơ thể trở nên kiệt quệ về năng lượng nên trong giai đoạn này cơ thể tự động bù đắp năng lượng từ các nguồn dự trữ của cơ thể. Theo đó cơ thể sẽ tăng tiết corticolibérine, huy động nguồn dự trữ năng lượng, ức chế hệ miễn dịch của cơ thể để phòng tránh lại những nhân tố có hại tấn công cơ thể từ bên ngoài.

Đây là giai đoạn diễn ra trong vòng 6 tháng sau chấn thương, cơ thể sẽ tìm cách bổ sung các năng lượng và ion để chống đỡ lại những khó khăn trước mắt. Nếu vượt qua được giai đoạn này thì tức là bệnh đã khỏi.

Giai đoạn 3 – Giai đoạn kiệt quệ

Đây có thể được coi là giai đoạn vượt qua 6 tháng, các nguyên nhân sang chấn không được giải quyết khiến tinh thần trở nên kiệt quệ, các năng lượng dữ trữ đã hết. Lúc nay rối loạn thích nghi sẽ chuyển sang giai đoạn mãn tính với mức độ nguy hiểm và khó khăn trong điều trị hơn rất nhiều.

Đồng thời hệ miễn dịch và khả năng chống chọi lại bệnh tật trong giai đoạn này cũng suy giảm nặng. Người bệnh phải đối diện với rất nhiều bệnh tật chẳng hạn như các vấn đề về tiêu hóa, cao huyết áp, các vấn đề tim mạch. Đồng thời khi mà cortisol trong máu bị tăng lên sẽ làm nồng độ calcium tăng cao và phá hủy các tế bào thần kinh.

Triệu chứng điển hình của rối loạn thích nghi

Tất nhiên khi đối mặt với một tình huống vượt quá sức tưởng tượng thì rất khó để người bệnh có thể trở lại bình thường nhanh chóng. Sức chịu đựng về tinh thần ở mỗi người là khác nhau, có người có thần kinh tốt thì có thể vượt qua nhanh chóng còn người có thần kinh yếu thì cứ chìm đắm trong sự hoảng sự không thoát ra được.

Rối loạn thích nghi
Người bệnh rối loạn cảm thấy buồn bã, u ám, nhớ về quá khứ và khóc dễ dàng

Những triệu chứng bệnh điển hình bao gồm

  • Buồn, u uất, cảm giác có thể khóc bất cứ lúc nào
  • Lo lắng, vô vọng, bế tắc
  • Thiếu tập trung, thường lơ đãng
  • Có những hành vi bốc đồng ngoài sự kiểm soát
  • Có xu hướng chống đối xã hội, ví dụ ở học sinh thì làm trái lời giáo viên
  • Mất ngủ, khó ngủ, gặp ác mộng
  • Cơ thể mệt mỏi, không còn năng lượng
  • Rối loạn tiêu hóa
  • Cảm giác trốn chạy, khép kín
  • Bứt rứt, khó chịu, đứng ngồi không yên
  • Cảm thấy đau nhức cơ thể
  • Rối loạn nhịp tim, co giật hay run rẩy
  • Có những suy nghĩ tự sát hay làm hại bản thân

Các triệu chứng này diễn ra liên tục làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đời sống, tinh thần và các mối quan hệ xung quanh. Các RLTN kéo dài còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tâm lý khác như trầm cảm hay rối loạn lo âu rất trầm trọng nên người bệnh cần nhanh chóng có các biện pháp điều trị kịp thời.

Nguyên nhân gây rối loạn thích nghi

Như đã nói, những sang chấn tâm lý diễn ra đột ngột mà chính người  không lường trước được hay dù đã đoán trước nhưng chưa chuẩn bị đủ tâm lý là những yếu tố liên quan trực tiếp đến RLTN. Những stress kéo dài trong cuộc sống, nhiều vấn đề căng thẳng diễn ra cùng lúc, dồn nén lại và bùng phát vào một thời điểm cũng là yếu tố gây bệnh cao.

Rối loạn thích nghi
Các chấn thương tâm lý, những thay đổi đột ngột khi họ chưa chuẩn bị tâm lý là nguyên nhân gây bệnh

Cụ thể những tác nhân chính gây rối loạn thích nghi bao gồm

  • Bệnh tật hay các vấn đề sức khỏe trầm trọng
  • Sự ra đi đột ngột của người thân
  • Sự chia ly, rạn nứt với các mối quan hệ gắn bó lâu ngày
  • Các vấn đề về tiền bạc, người có thu nhập thấp, người ở tầng lớp xã hội thấp
  • Bạo lực gia đình hay bạo lực học đường, bao lực xã hội
  • Cha mẹ ly hôn, gia đình ly tán ( nguyên nhân này thường gặp chủ yếu ở trẻ em)
  • Lo lắng về giới tính
  • Người mới chuyển chỗ ở cũng có thể gặp những khó khăn trong việc thích ứng và làm quen với cuộc sống mới, những con người  mới, công việc mới..

Phát hiện chính xác các tác nhân gây bệnh sẽ góp phần hỗ trợ cho việc điều trị nhanh chóng và đạt kết quả tốt hơn.

Hướng chẩn đoán rối loạn thích nghi

Việc chẩn đoán cần được tiến hành chính xác nhằm xác định đúng tình trạng bệnh cũng như ngăn ngừa nguy cơ nhầm lẫn với những bệnh lý khác. Theo tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD.10(F43.2), bệnh nhân được xác định là rối loạn thích nghi khi đạt được những yêu cầu sau ( Trích dẫn)

  • A. Các triệu chứng được xuất hiện trong vòng 1 tháng kể thời thời điểm tiếp nhận sang chấn. Các tổn thương tâm lý này có thể đồng cảm được, không có tính thảm họa hay bất thường.
  • B. Bệnh nhân có các triệu chứng về cả rối loạn hành vi (trừ hoang tưởng hay ảo giác); các dạng rối loạn tâm thần có liên quan đến stress và rối loạn dạng cơ thể. Với các rối loạn riêng biệt có thể không được đáp ứng đầy đủ. Mức độ và dạng bệnh nhân gặp phải sẽ khác nhau.
  • C. Các triệu chứng không kéo dài dai dẳng sau khi những yếu tố sang chấn kết thúc hoặc hậu quả đã được giải quyết

Đặc biệt trong yếu tố B, các triệu chứng sẽ được biệt định kỹ hơn qua các triệu chứng sau

  • Phản ứng trầm cảm ngắn: với dấu hiệu trầm cảm nhẹ diễn ra trong vòng dưới 1 tháng
  • Phản ứng trầm cảm kéo dài: các triệu chứng trầm cảm nhẹ xuất hiện khi tiếp xúc với stress kéo dài không quá 2 năm
  • Phản ứng trầm cảm và lo âu hỗn hợp: có các dấu hiệu trầm cảm và lo âu nổi trội tuy nhiên ở mức độ thấp hơn các triệu chứng đặc hiệu
  • Rối loạn ưu thế về các cảm xúc khác: với các trạng thái điển hình như lo âu, căng thẳng, trầm cảm, giận dữ
  • Rối loạn ưu thế về hành vi: xuất hiện các hành vi trạng thái chống đối với xã hội
  • Rối loạn hỗn hợp các cảm xúc và hành vi: Có các biểu hiện cảm xúc và rối loạn hành vi nổi trội

Để xác định chính xác hơn, bác sĩ sẽ tiến chỉ định các xét nghiêm như xét nghiệm máu, điện não đồ, điện tâm đồ, CT …. Đồng thời bác sĩ cũng trao đổi với bệnh nhân về các lịch sử tâm thần, tìm hiểu về những sang chấn người bệnh gặp phải, làm các bài test để có hướng điêu trị đúng đắn nhất.

Rối loạn thích nghi cũng có thể nhầm lẫn với một số bệnh lý khác như trầm cảm hay rối loạn lo âu ( mặc dù cả hai bên có thể là nguyên nhân hay hậu quả bệnh) nên người bệnh cần tìm đến các bệnh viện uy tín để được thăm khám và điều trị chính xác hơn.

Hướng điều trị rối loạn thích nghi

Tùy từng mức độ và tình trạng bệnh mà hướng điều trị của từng bệnh nhân sẽ là khác nhau. Thường bác sĩ sẽ chủ yếu yêu cầu trị liệu tâm lý để định hướng những nhận thức, suy nghĩ của bệnh nhân tích cực hơn, giải quyết khủng hoảng. Các loại thuốc chủ yếu được chỉ định nếu có liên quan đến các bệnh tật khác, tình trạng trầm cảm hay các vấn đề tâm lý khác để ngăn ngừa các hành vi tự sát.

Điều trị y khoa

Việc dùng thuốc hầu hết chỉ được chỉ định dùng trong thời gian ngắn, đến khi người bệnh đã dần quay trở lại được với nhịp sống bình thường. Tuy nhiên ở giai đoạn cấp tính rất ít khi được chỉ định dùng thuốc, chỉ khi bệnh diễn tiến qua giai đoạn mãn tính, có liên quan đến trầm cảm, lo âu hay các rối loạn tâm thần khác bác sĩ mới kê đơn thuốc.

Rối loạn thích nghi
Việc dùng thuốc chủ yếu được chỉ định trong các giai đoạn mãn tính

Một số nhóm thuốc được dùng trong điều trị rối loạn thích nghi bao gồm

  • Nhóm an thần Benzodiazepine ví dụ như lorazepam, alprazolam giúp hỗ trợ giấc ngủ. Tuy nhiên thuốc có thể gây nghiện và phụ thuộc nên cần tránh lạm dụng
  • Nhóm Nonbenzodiazepine thế hệ mới giúp tăng chất lượng giấc ngủ, giảm lo âu nhưng không quá nhiều tác dụng phụ. Có thể sử dụng gabapentin.
  • Chất ức chế tái hấp thu serotonin  SSRI hoặc SNRI giúp serotonin trong não được cân bằng để cải thiện các triệu chứng lo âu hay trầm cảm. Có thể sử dụng sertraline hoặc venlafaxine.
  • Các loại thuốc bổ để bồi bổ thể lực và tinh thần khác

Việc dùng thuốc cần tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ, tránh tự ý dùng thuốc hay tăng/ giảm liều bất thường. Trong quá trình điều trị người bệnh nên liên hệ trao đổi với bác sĩ thường xuyên để kiểm soát ngay nếu các bất cứ dấu hiệu lạ nào khác.

Trị liệu tâm lý

Đây là phương pháp được hướng đến chính trong điều trị rối loạn thích nghi. Mục tiêu của trị liệu là hiểu về tình trạng bệnh, giải tỏa căng thẳng, chấp nhận các chấn thương tâm lý và tự hồi phục tâm lý. Các bác sĩ cũng định hướng người bệnh đến những suy nghĩ lạc quan vui vẻ, giúp người bệnh sớm hòa nhập vào môi trường, cuộc sống mới.

Rối loạn thích nghi
Trị liệu tâm lý giúp bệnh nhân buông bỏ những đau thương là mục tiêu chính trong điều trị rối loạn thích nghi

Các biện pháp thường được áp dụng trong trị liệu tâm lý bao gồm

  • Liệu pháp nhóm.
  • Chăm sóc tâm lý khẩn cấp.
  • Nhận thức hành vi (CBT).
  • Trò chuyện liệu pháp.
  • Liệu pháp tương tác cá nhân (IPT).

Người bệnh cần thực sự hợp tác và tin tưởng vào trị liệu, mở lòng và sẻ chia với bác sĩ để việc điều trị có kết quả tốt nhất. Các bác sĩ cũng sẽ hướng dẫn bệnh nhân cách giải tỏa cảm xúc, loại bỏ nỗi buồn, tìm kiếm niềm vui và cách kiểm soát tâm trạng. Thông qua mỗi buổi trị liệu, tinh thần bệnh nhân dần ổn định hơn, có thể hòa nhập vào đời sống cộng đồng bình thường và có thể tiến đến cuộc sống mới vui vẻ hạnh phúc hơn.

Phòng tránh nguy cơ rối loạn thích nghi

Thực tế bất cứ ai khi trải qua một sự kiện chấn động có ai là không đau khổ tổn thương, tuy nhiên quan trọng là cách vượt qua thế nào. Có các biện pháp chăm sóc tinh thần từ sớm sẽ làm giảm những tác động từ sang chấn tâm lý để bạn có thể vượt qua dễ dàng hơn.

Để phòng tránh rối loạn thích nghi cũng như các bệnh tâm thần khác, mỗi người nên thực hiện các biện pháp sau đây

  • Tránh làm việc quá sức hay suy nghĩ quá nhiều khiến tinh thần bị căng thẳng, không được thoải mái
  • Dành những giờ phút nghỉ ngơi thư giãn sau mỗi ngày làm việc căng thẳng, có thể đơn giản như nghe nhạc, tắm nước ấm, xem phim hay nói chuyện cùng bạn bè
  • Học cách nói ra những nỗi buồn với bạn bè, người thân. Nếu không muốn nói ra bạn có thể học cách viết ra
  • Tập thể dục thể thao mỗi ngày vừa là cách giải tỏa tâm trạng vừa giúp nâng cao sức khỏe
  • Yoga hay thiền đều là những bộ môn rất tốt cho sức khỏe tinh thần
  • Học cách yêu thương bản thân mình hơn
  • Luôn suy nghĩ đến những điều vui vẻ tích cực mỗi ngày, tránh để bản thân bị lo lắng căng thẳng quá lâu
  • Mỗi ngày bạn có thể dành 15p để ngồi tại một nơi yên tĩnh, hít thở không khí trong lành thoáng mát, điểm lại những sự kiện trong ngày. Nếu có bất cứ một chuyện nào không vui hay nhanh chóng loại bỏ nó, tránh để các nỗi buồn tích tụ lại quá lâu
  • Tự tin hơn bản thân, mở rộng mỗi quan hệ bạn bè để có thể tâm sự sẻ chia mỗi ngày nhiều hơn.

Rối loạn thích nghi có thể được loại bỏ sớm nếu kéo dài chưa quá 6 tháng. Bất cứ ai cũng có thể là nạn nhân của chứng bệnh này, tuy nhiên nếu có biện pháp phòng tránh và chăm sóc tinh thần từ sớm sẽ làm giảm tối đa nguy cơ mắc bệnh này.

Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *